- Xuất xứ: Việt Nam. ( Green Tea Leaf ) : Có chứa các hợp chất, đặc biệt là catechin có khả năng kiểm soát tình trạng viêm và chống nhiễm trùng do vi khuẩn. Các thành phần có trong trà xanh có tác dụng kiểm soát vi khuẩn và làm giảm nồng độ axit trong nước bọt và mảng
Kể từ khi kháng sinh ra đời, kháng sinh đã trở thành "anh hùng" thực sự khi cứu sống hàng trăm triệu người trên khắp thế giới. Giờ đây chúng ta không còn lo lắng nhiều về nhiễm trùng như trước kia. Các trường hợp viêm phổi, viêm thận - bể thận, nhiễm trùng huyết hay thậm chí là viêm màng não nguy hiểm cũng gần như không còn đáng ngại.
Kháng chiến tự lực cánh sinh và tranh thủ sự ủng hộ quốc tế: chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. 0 Trả lời · 07/10/21. Kim Ngưu. Đường lối kháng chiến tàn dân, toàn vẹn, trường kì, tự lực cánh sinh và tranh thủ sự ủng hộ quốc tế của
Khi nam giới gặp phải tình trạng hẹp bao quy đầu thường gặp phải rất nhiều khó khăn khi vệ sinh bộ phận sinh dục. Hơn nữa, việc vệ sinh không sạch sẽ còn khiến các chất bẩn, cặn bẩn tích tụ lại và tạo điều kiện cho vi khuẩn tấn công gây viêm nhiễm nam khoa.
Báo cáo Vi sinh và tình hình đề kháng kháng sinh tại bệnh viện năm 2021Ngày đăng: 04/04/2022 - Lượt xem: 1408. Thực hiện nhiệm vụ được quy định trong Quyết định số 5631/QĐ-BYT ngày 31/12/2020 cảu Bộ trưởng Bộ Y tế về Hướng dẫn thực hiện quản lý sử dụng kháng sinh trong
chính sách chí phù hợp với tình hình nay, năm 2010 vấn đề toàn cầu kháng kháng sinh trên giới, nhiều chủng vi khuẩn gây bệnh trở nên ngày kháng thuốc kháng sinh các kháng sinh "thế hệ một" gần không lựa chọn nhiều trường hợp các kháng sinh hệ đắt tiền, chí số kháng sinh thuộc nhóm "lựa chọn cuối cùng" dần hiệu lực bằng chứng lây lan chủng vi …
seBOA6B. TÌNH HÌNH KHÁNG THUỐC KHÁNG SINH HIỆN NAY TẠI VIỆT NAM Theo NCDLS Lê Mới Em, Bệnh Viện Đa Khoa Huyện Thạnh Trị, Sóc Trăng Tình hình đề kháng thuốc kháng sinh hiện nay hình kháng thuốc trên thế giới. Trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển, vấn đề kháng thuốc đã trở nên báo động. Gánh nặng về chi phí điều trị do các bệnh nhiễm khuẩn gây ra khá lớn do việc thay thế các kháng sinh cũ bằng các kháng sinh mới, đắt tiền. Số liệu nghiên cứu giám sát ANSORP từ tháng 1/2000 đến tháng 6/2001 của 14 trung tâm từ 11 nước Đông Nam Á cho thấy tỷ lệ kháng cao của vi khuẩn S. pneumoniae. Trong số 685 chủng vi khuẩn S. pneumoniae phân lập được từ người bệnh, có 483 52,4% chủng không còn nhạy cảm với penicillin, 23% ở mức trung gian và 29,4% đã kháng với penicillin MIC ≥ 2mg/l. Kết quả phân lập vi khuẩn cho thấy tỷ lệ kháng penicillin ở Việt Nam cao nhất 71,4% tiếp theo là Hàn Quốc 54,8%, Hồng Kông 43,2% và Đài Loan 38,6%. Tỷ lệ kháng erythromycin cũng rất cao, ở Việt Nam là 92,1%, Đài Loan là 86%, Hàn Quốc là 80,6%, Hồng Kông là 76,8% và Trung Quốc là 73,9%. Số liệu từ nghiên cứu giám sát đa trung tâm đã chứng minh rõ ràng về tốc độ và tỷ lệ kháng của S. pneumoniae tại nhiều nước châu Á, những nơi có tỷ lệ mắc bệnh nhiều nhất thế giới. Theo số liệu nghiên cứu KONSAR từ 2005-2007 ở các bệnh viện Hàn Quốc cho thấy S. aureus kháng Methicillin MRSA 64%; K. pneumoniae kháng cephalosporin thế hệ 3 là 29%; E. colikháng fluoroquinolone 27%, P. aeruginosa kháng 33%, Acinetobacter spp. kháng 48%; P. aeruginosa kháng amikacin 19%, Acinetobacter 37%. E. faecium kháng vancomycin và Acinetobacter spp. kháng imipenem tăng lên dần. Tỷ lệ kháng phát hiện tại các phòng xét nghiệm của E. coli và K. pneumoniae đối với cephalosporin thế hệ 3 và P. aeruginosa đối với imipenem cao hơn trong bệnh viện. Tình hình kháng thuốc kháng sinh ở Việt Nam. Tỉ lệ kháng kháng sinh của các chủng vi khuẩn Gram dương. Tụ cầu vàng Staphylococcus aureus là nguyên nhân gây nhiều loại nhiễm khuẩn trong bệnh viện như viêm phổi, nhiễm trùng xương, tim và nhiễm khuẩn huyết. Hiện nay, tụ cầu vàng kháng methicillin MRSA kháng giống nhau đối với tất cả các penicillin hiện hành và các β – lactam khác. Từ sau thập niên 1990 đã xuất hiện các trường hợp nhiễm MRSA tại cộng đồng gọi là CA-MRSA community-associated MRSA, những trường hợp này hoàn toàn không có yếu tố nguy cơ nhiễm khuẩn mắc phải tại bệnh viện. Nhiễm trùng do vi khuẩn này đang có khuynh hướng xảy ra phổ biến hơn ở người trẻ, khỏe mạnh và gây bệnh chủ yếu ở da và mô mềm. Cũng có thể gặp viêm phổi hoại tử do vi khuẩn này. Nhiễm khuẩn do MRSA khó điều trị hơn so với tụ cầu vàng nhạy cảm với methicillin, chỉ có một số kháng sinh còn có hiệu quả tốt trong tình huống này. Tỉ lệ kháng kháng sinh của S. aureus khác nhau giữa các bệnh viện có tới 68,8% các chủng phân lập tại bệnh viện Chợ Rẫy kháng với Gentamicin. Tỉ lệ kháng Oxacillin cao nhất tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Huế với 63,8%. Theo báo cáo của Bệnh viện Chợ Rẫy năm 2008, có 8% số chủng S. aureus phân lập được đề kháng với vancomycin. Tuy nhiên, đến năm 2009, phần lớn các bệnh viện kể cả Chợ Rẫy không có chủng S. aureus nào đề kháng với vancomycin trừ một số bệnh viện tỉnh và bệnh viện trực thuộc Sở y tế cho kết quả đáng nghi ngờ về tỉ lệ kháng vancomycin của tụ cầu vàng, ví dụ như 60,9% S. aureus kháng vancomycin tại bệnh viện Uông Bí, 24,1% tại bệnh viện Bình Định và 15,6% tại bệnh viện Xanh Pôn. Streptococcus pneumoniae xuất hiện kháng thuốc với nhiều loại kháng sinh, bao gồm penicillin, cephalosporins các β – lactam, macrolide, fluoroquinolone, và thậm trí đã xuất hiện đa kháng thuốc. Cơ chế phế cầu đề kháng với β – lactam là thay đổi protein kết hợp thuốc PBP-penicillin binding protein. Tình hình kháng với macrolide là cao và nghiêm trọng trên phạm vi toàn cầu. Hai cơ chế chính kháng macrolide, cụ thể là kháng ở mức thấp MIC 1-32mcg/mL do thay đổi cơ chế bơm đẩy do gen mef A quyết định và kháng ở mức cao MIC> 64mcg/mL do cơ chế methyl hóa ribosome tác động lên vị trí kết hợp thuốc do gen erm B quyết định. Hiện nay, trên phạm vi toàn cầu, tình trạng phế cầu kháng fluoroquinolone FQ còn rất hiếm nhưng đang có khuynh hướng gia tăng. Fluoroquinolone tác dụng trên vi khuẩn thông qua cơ chế ức chế tổng hợp DNA. Kháng thuốc xuất hiện bằng cơ chế đột biến các gen gyrA và parC. Ở các trường hợp ngưỡng kháng thấp, đột biến chủ yếu xảy ra ở vị trí parC và các trường hợp này còn nhậy cảm với các fluoroquinolone mới. Trong khi kháng ở mức độ cao có sự tham gia đồng thời đột biến ở cả 2 vị trí gen parC và gyrA. Kháng thông qua cơ chế bơm đẩy cũng có thể xảy ra nhưng ý nghĩa thực của cơ chế còn chưa biết rõ. Tỉ lệ kháng kháng sinh của các chủng vi khuẩn Gram âm. Nhiễm trực khuẩn Gram- như Klebsiella pneumoniae, Escherichia coli và các chủng vi khuẩn khác thuộc nhóm Enterobacteriaceacó vẻ tương đối phổ biến. Trong những năm qua, đã có sự gia tăng kháng thuốc trong số các vi khuẩn gây bệnh nhóm này, bao gồm cả sự hiện diện của các men beta-lactamase phổ rộng ESBL. Những ca kháng thuốc đã được ghi nhận ở nhiễm khuẩn cộng đồng và nhất là trên những người có sử dụng dịch vụ chăm sóc y tế. Nhiễm trùng nhóm này thường kết hợp với tăng tử vong, có rất nhiều dạng kháng thuốc đã được phát hiện trong nhóm trực khuẩn Gram - này. Klebsiella pneumoniae là trực khuẩn Gram âm gây viêm phổi mắc phải tại bệnh viện. Hiện nay, tại Việt Nam đã xuất hiện một trong những vi khuẩn đa kháng thuốc. Sự kháng thuốc của nhóm vi khuẩn này cực kì nguy hiểm bởi vì bản thân loại vi khuẩn này có khả năng sinh được hai loại enzyme β lactamase phổ rộng và carbapenemase. Các enzyme này làm biến đổi, phá hủy cấu trúc hóa học của kháng sinh. β lactamase phổ rộng có khả năng phân giải hầu hết các loại kháng sinh thuộc nhóm β lactam đặc biệt đối với các penicillin và các cephalosporin thế hệ thứ 3. Quan trọng hơn nữa là Klebsiella pneumoniae còn có khả năng sản sinh được carbapenemase phân giải carbapenem như imipenem, meropenem…, trong khi carbapenem được xem như là cứu cánh cuối cùng trong việc lựa chọn kháng sinh để điều trị. Kết quả Phân lập được 35 chủng từ 680 mẫu bệnh phẩm tại Viện Pasteur TP Hồ Chí Minh từ tháng 1-6/2014, kết quả như sau K. pneumoniakháng cao nhất với Ampiciline 94,29%, tiếp đó Trimethoprim/ sulfamethoxazol 79,31%, Cephalexine, Piperacillin 62,86%, Ceftazidime 51,43%, chỉ một tỉ lệ nhỏ kháng lại Colistin, Imipenem, Meropenem 2,86%; 65,71% chủng sinh ESBL và 20% chủng sản xuất carbapenemase. Trực khuẩn mũ xanh Pseudomonas aeruginosa là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây nhiễm khuẩn mắc phải tại bệnh viện. Chúng gây nên những bệnh lí với nhiều mức độ khác nhau như viêm phổi, nhiễm khuẩn vết thương, nhiễm khuẩn huyết nặng với tỉ lệ tử vong khá cao. Tỉ lệ P. aeruginosa gây nhiễm khuẩn bệnh viện đã tăng dần trong những năm gần đây trên thế giới và cả Việt Nam. Cùng với sự gia tăng về tỉ lệ nhiễm khuẩn là sự gia tăng về khả năng kháng kháng sinh, cụ thể kháng với carbapenem. Ở Việt Nam, nghiên cứu ở 36 bệnh viện các tỉnh phía Bắc trong năm 2006 – 2007 bao gồm 2 bệnh viện Trung ương, 17 bệnh viện tuyến tỉnh, 17 bệnh viện tuyến huyện cho thấy 553/7571 7,8% bệnh nhân bị nhiễm trùng mắc phải tại bệnh viện. Có 3 loại nhiễm khuẩn chính viêm phổi 41,9%, nhiễm khuẩn vết mổ 27,5%, nhiễm khuẩn tiêu hóa 13,1%. Căn nguyên chính là Acinetobacter baumannii 23,3% và Pseudomonas aeruginosa 31,5%. Theo kết quả nghiên cứu từ 4 bệnh viện tại Hà Nội Việt Đức, Xanh Pôn, Bệnh viện 108 và Bệnh viện 103 từ năm 2005 – 2008 cho thấy P. aeruginosa phân lập từ các bệnh phẩm đề kháng rất cao với các loại kháng sinh như Tetracycline 92,1%, Ceftriaxone 58,5% và Gentamicin 54%. Acinetobacter là những vi khuẩn Gram âm, đa hình hình cầu khuẩn hoặc cầu trực khuẩn, rất dễ nhầm lẫn với các vi khuẩn thuộc giống Neisseria. Chúng gây những bệnh lí khác nhau với mức độ khác nhau, từ viêm phổi đến nhiễm khuẩn vết thương và nhiễm khuẩn huyết nặng. Tỉ lệ Acinetobacter nhiễm khuẩn bệnh viện đã tăng lên đều đặn trong những năm gần đây trên thế giới. Kết hợp với tỉ lệ nhiễm khuẩn tăng, một tỉ lệ tăng lên của chủng không nhạy cảm kháng sinh, cụ thể carbapenem đặc biệt đáng lo ngại. Hiện nay, Acinetobacter được xem là vi khuẩn hàng đầu gây viêm phổi bệnh viện tại những bệnh viện lớn trong nước và kháng với hầu hết kháng sinh kể cả những kháng sinh phổ rộng mạnh nhất hiện nay. Trong tổng kết của Bộ Y tế năm 2004, phần lớn những kháng sinh sử dụng thường xuyên hiện nay đã bị kháng như ceftriaxone 70%, ceftazidime 64%, ciprofloxacine 55% và Acinetobacter trở thành tác nhân hàng đầu kháng toàn bộ kháng sinh cùng với P. aeruginosa gây rất nhiều khó khăn cho công tác điều trị. Các chủng vi khuẩn đa kháng thuốc hiện nay “ESKAPE”viết tắt của 6 chữ cái đầu tiên của 6 chủng vi khuẩn trong hình minh họa bên dưới là các tác nhân gây nhiễm trùng nặng, kéo dài thời gian nằm viện và tăng chi phí điều trị. Cơ chế đề kháng kháng sinh của vi khuẩn Làm thay đổi đích tác động. Vi khuẩn thay đổi đích tác động của kháng sinh, do đó kháng sinh không còn vị trí để tác động. Ví dụ Acinobacter baumani kháng lại Imipenem và Pseudomonas aeruginosa kháng Ticarcillin và Imipenem do chúng thay đổi vị trí gắn vào protein của các kháng sinh. Cơ chế tác động của các kháng sinh nhóm quinolone là ức chế hoạt động của đoạn gen mã hóa quá trình tổng hợp enzym GyrA ADN gyrase subunit A và ParC topoisomerase IV của tế bào vi khuẩn. Ví dụ tính kháng quinolone của S. typhi xảy ra do đột biến điểm của các đoạn gen mã hóa quá trình tổng hợp enzym GyrA và ParC trên nhiễm sắc thể của vi khuẩn. Tạo ra các enzyme. Enzym được tạo ra làm biến đổi hoặc phá hủy cấu trúc phân tử của kháng sinh. Ví dụ với các enzym beta-lactamase có khả năng phá hủy penicillin được báo cáo trước khi được đưa vào sử dụng vào đầu những năm 1940. Sau đó hàng loạt các enzym beta-lactamase có khả năng ức chế hoặc phân hủy các kháng sinh mạnh như cephalosporin và carbapenem được phát hiện. Hiện nay đã xác định được hơn 890 loại enzym kháng kháng sinh của vi khuẩn, nhiều hơn số lượng các loại kháng sinh đã được sản xuất và phần lớn các gen mã hóa các enzym này nằm trên các plasmid có thể truyền dễ dàng trong quần thể vi khuẩn cùng và khác loài. Làm giảm tính thấm của màng nguyên sinh chất Làm giảm mức độ thấm của kháng sinh qua thành tế bào vi khuẩn trong trường hợp kháng tetracycline hoặc làm mất hệ thống vận chuyển qua màng trong trường hợp kháng kháng sinh nhóm aminoglycosid. Việc thâm nhập của các kháng sinh nhóm beta-lactam được thực hiện qua các kênh vận chuyển porin, vi khuẩn biến đổi làm mất các kênh vận chuyển và làm hạn chế sự tác động của nhóm kháng sinh này. Cơ chế bơm đẩy efflux pump của các kháng sinh nhóm quinolon của vi khuẩn E. colivà P. aeruginosa, thường liên quan đến hệ thống vận chuyển ion qua màng tế bào. Tài liệu tham khảo. Bùi Khắc Hậu và nhóm tác giả 2008, Dịch tễ học phân tử các chủng Pseudomonas aeruginosa đa kháng thuốc nhiễm trùng bệnh viện tại Hà Nội, Báo cáo kết quả nghiên cứu Đề tài cấp Bộ, Đại học Y Hà Nội. Nguyễn Văn Hùng, Nguyễn Thị Tuyết Nga, Vũ Văn Giang, Nguyễn Văn Hà, Trần Quý 2008, Tỉ lệ và các yếu tố liên quan đến nhiễm trùng bệnh viện trong một số bệnh viện ở phía bắc của Việt Nam, 2006-2007, Tạp chí Y học lâm sàng 6. Hoàn Doãn Tĩnh, Vũ Lê Ngọc Lan, Uông Nguyễn Đức Minh, Lí Thành Hữu, Cao Hữu Nghĩa 2014, Tình hình kháng kháng sinh của Pseudomonas aeruginosa phân lập được trên bệnh phẩm tại viện pasteur, TP Hồ Chí Minh. Bùi Thị Mùi, Lê Thị Ánh Hồng, Nguyễn Thanh Liêm 2010, “Tỉ lệ sinh men Beta – lactamaes phổ rộng và tính nhạy cảm kháng sinh của Klebsiella Pneumoniae gây nhiễm khuẩn đường hô hấp trẻ em từ sơ sinh đến 6 tuổi ở Bệnh viện Nhi Trung ương”, Tạp chí Y học dự phòng, 217. Kế hoạch hành động quốc gia về phòng chống kháng thuốc giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2020 Phê duyệt kèm theo Quyết định số 2174/QĐ-BYT ngày 21 tháng 6 năm 2013 của Bộ trưởng Bộ Y tế. Nghiên cứu giám sát ANSORP từ 1/2000 đến 6/2001 Song JH & ANSORP. Antimicrobial Agents And Chemotherapy, June 2004, p. 2101–2107. Nghiên cứu KONSAR từ 2005-2007 ở các bệnh viện KoreaYonsei Med J. 2010 Nov;516901-11. Clinical Relevance of the ESKAPE
Kháng nhiều “vũ khí” trị bệnhNgày 5/8, tại Hội nghị Triển khai kế hoạch hành động quốc gia về chống kháng thuốc, Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Xuyên cho biết, các bệnh lý nhiễm khuẩn vẫn luôn chiếm tỷ lệ lớn trong mô hình bệnh tật của Việt Nam. Vì vậy việc sử dụng kháng sinh là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, việc sử dụng kháng sinh chưa phù hợp, lạm dụng kháng sinh, điều trị kháng sinh khi không mắc bệnh lý nhiễm khuẩn làm gia tăng tình trạng kháng thuốc kháng sinh của vi khuẩn gây bệnh. Vấn đề kháng thuốc xuất hiện từ những năm cuối của thập kỷ 60, tuy nhiên việc gia tăng sự kháng thuốc của vi khuẩn gây bệnh đang trở thành mọt nguy cơ lớn cho toàn thể nhân loại. Cùng quan điểm này, ông Cao Hưng Thái, Phó Cục trưởng Cục Quản lý Khám Chữa bệnh, Bộ Y tế cho rằng mức độ và tốc độ kháng thuốc ngày càng gia tăng, đang ở mức báo động. Gánh nặng do kháng thuốc ngày càng tăng do chi phí điều trị tăng lên, ngày điều trị kéo dài. Nguyên nhân kháng thuốc, không nhiễm khuẩn cũng dùng kháng sinh, tự ý sử dụng trong cộng đồng, dùng kháng sinh không làm kháng sinh đồ, dùng kháng sinh không phù hợp; không đúng lượng, hàm lượng, thời gianTại Việt Nam, hầu hết các cơ sở y tế đang phải đối mặt với tốc độ lan rộng các vi khuẩn kháng với nhiều loại kháng sinh. Kháng thuốc không phải vấn đề mới nhưng đang trở nên nguy hiểm, cấp bách. Theo báo cáo kết quả nghiên cứu ở 19 bệnh viện ở Hà Nội, TPHCM và Hải Phòng trong 2 năm 2009-2010 về tình trạng kháng thuốc kháng sinh, có 4 chủng vi khuẩn thường gặp kháng kháng sinh là acinetobacter spp, Pseudomonas spp, Klebsiella. Hầu hết các kháng sinh thông thường như penicillin, tetracycline, streptomycine… hay như kháng sinh Cephalosporn thế hệ thứ 3 đều đã xuất hiện các khuẩn kháng thuốc. Sự kháng thuốc cao đặc biệt ở nhóm thuốc Cephalosporin thế hệ 3, 4 với tỷ lệ kháng từ 66-83%, tiếp theo là nhóm kháng sinh Aminosid và Fluoroquinolon tỷ lệ kháng xấp xỉ trên 60%. Tỷ lệ kháng imipenem năm 2009 là 35%, tăng gần gấp đôi so với tỷ lệ này năm 2006 18,4%Trong điều tra về các bệnh tật cụ thể như lao, một khảo sát nghiên cứu cho thấy khoảng 3% số ca sốt rét kháng các liệu pháp kết hợp Artemisinin ở các tỉnh như Quảng Trị, Gia Lai và Đắc Nông. Hậu quả là có khoảng ca nhiễm lao đa kháng thuốc, gây ca tử vong mỗi chương trình Giám sát sự lây lan của HIV kháng thuốc tại TPHCM năm 2008 đã ghi nhận khoảng 5-15% số người đã kháng lại các loại thuốc kháng vi rút, thậm chí trước khi bắt đầu phác đồ điều trị… 90% kháng sinh được bán không cần đơn!Theo Nguyễn Văn Kính, Giám đốc BV Bệnh Nhiệt đới Trung ương, 90% kháng sinh được bán không có đơn, những người không có kinh nghiệm thường đứng bán thuốc, thuốc kháng sinh chiếm 25% tổng số thuốc bán ra, thuốc nội được bán chủ yếu ở vùng nông thôn, người mua thường yêu cầu mua kháng sinh do thiếu hiểu quả khảo sát về việc bán thuốc kháng sinh ở các hiệu thuốc vùng nông thôn và thành thị ở các tỉnh phía Bắc cho thấy nhận thức về kháng sinh và kháng kháng sinh của người bán thuốc và người dân còn thấp, đặc biệt ở vùng nông thôn. Trong tổng số gần nhà thuốc được điều tra, thì gần 1/3 có bán đơn thuốc kê kháng sinh. Ba loại kháng sinh được bán nhiều nhất là ampicillin/amoxicillin, cephalexin và azithromycin. Người dân thường yêu cầu được bán kháng sinh mà không có đơn với tỉ lệ gần 50% ở thành thị và gần 1/3 ở nông thôn. Đáng chú ý, kháng sinh được sử dụng ở rất nhiều đơn thuốc, có khoa thuốc kháng sinh được sử dụng ở 100% bệnh nhân. Theo một báo cáo mới đây của Vụ Bảo hiểm y tế Bộ Y tế về kết quả khảo sát tại một bệnh viện lớn ở Hà Nội, số thuốc được kê trung bình một đơn là 7,06 loại, nhiều đơn có tới 10 - 20 loại. Tại bệnh viện Trung ương Huế, khảo sát 443 hồ sơ bệnh án năm 2012, tỉ lệ sử dụng 3 loại kháng sinh trong 1 đợt điều trị là 120, hơn 200 hồ sơ sử dụng 4-6 loại kháng sinh, 6 loại là 47 hồ sơ, chỉ có duy nhất 1 hồ sơ bệnh án sử dụng 1 loại kháng hạn chế tình trạng kháng kháng sinh, Bộ Y tế khuyến cáo người bệnh không nên lạm dụng. Khi có bệnh cần đi khám chứ không tự ý uống thuốc, đặc biệt là kháng sinh. Khi uống cần tuân thủ 4 quy tắc đúng chỉ định, liều lượng, thời gian và cách dùng. Bộ cũng khuyến cáo các bác sĩ cần cân nhắc trong việc kê đơn. Đồng thời Bộ Y tế cũng sẽ liên tục thanh kiểm tra khâu kê đơn, sử dụng thuốc tại bệnh viện để phát hiện và sẽ xử lý nghiêm các sai phạm. Về lâu dài, Bộ Y tế sẽ xây dựng chương trình giám sát quốc gia về kháng sinh, thiết lập hệ thống giám sát mức độ đề kháng của vi khuẩn tại mỗi bệnh viện, khu vực và trong phạm vi toàn quốc…. Hồng Hải
Kháng kháng sinh là vấn nạn toàn cầu ảnh hưởng tới sức khỏe mọi người dân và đe dọa sự phát triển bền vững của các quốc gia. Việt Nam nằm trong top quốc gia phổ biến nhất về kháng kháng sinh, trong bối cảnh giải pháp còn hạn chế. Kháng kháng sinh nguy hiểm như thế nào? Cuộc chiến lớn giữa với vi khuẩn kháng kháng sinh ngày càng trở nên khó khăn Kháng sinh là các loại thuốc được con người phát minh để chống lại khả năng phát triển, sinh sôi và tiêu diệt vi khuẩn gây bệnh. Mỗi loại kháng sinh có một “phổ tác dụng” khác nhau và thường hiệu quả trên một số chủng vi khuẩn nhất định. Khi con người bị mắc các bệnh lý nhiễm trùng như nhiễm trùng hô hấp, tiết niệu, sinh dục… kháng sinh được chỉ định để điều trị nguyên nhân gây bệnh. Tuy nhiên, trong một thập kỷ trở lại đây, nhiều loại vi khuẩn đã phát triển các biện pháp để chống lại tác dụng của nhiều loại kháng sinh, dẫn tới tình trạng kháng sinh trước đây sử dụng có hiệu quả nhưng hiện nay không còn hiệu quả trên các loại vi khuẩn gây bệnh nữa. Các chủng vi khuẩn đã chống lại được tác dụng của kháng sinh được gọi là vi khuẩn kháng kháng sinh. Mức độ nguy hiểm của kháng kháng sinh đã được các nhà khoa học cảnh báo từ lâu. Khi vi khuẩn đã trở nên kháng với các tất cả các loại kháng sinh, người bệnh có thể chết vì những nhiễm trùng thông thường, ngay cả một vết thương nhỏ, nhiễm trùng hô hấp nhẹ cũng có thể lấy đi tính mạng của một người khỏe mạnh. Một báo cáo mới đây công bố trên tạp chí PLoS Med tháng 11/2016 nhận định, tới năm 2050, có khoảng 10 triệu người chế mỗi năm vì kháng kháng sinh nếu thế giới không ngăn chặn được tình trạng này. Kháng kháng sinh tại Việt Nam đáng báo động Việt Nam đã tham gia tuần lễ chống kháng kháng sinh Việt Nam nằm trong khu vực có tỷ lệ kháng kháng sinh cao nhất trên thế giới vì nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân quan trọng nhất là tình trạng lạm dụng kháng sinh trong điều trị bệnh, lạm dụng kháng sinh trong chăn nuôi. Theo Nguyễn Tiến Dũng chia sẻ trong một buổi tư vấn trực tuyến về Các bệnh lý hô hấp trẻ em thường mắc trong mùa đông và cách xử trí “Ở Việt Nam, cứ ho cũng dùng kháng sinh, viêm họng cũng dùng kháng sinh thì không thể chấp nhận được. Như vậy sẽ làm gia tăng tỷ lệ kháng kháng sinh vì ho và viêm họng không nhất thiết phải do vi khuẩn gây ra mà có thể do nhiều nguyên nhân. Nếu dùng kháng sinh liên tục như vậy, kháng kháng sinh phổ biến là tất yếu”. Một báo cáo năm 2010 của Tổ chức nghiên cứu lâm sàng GARP - Việt Nam do Nguyễn Văn Kính, Nguyên Giám đốc bệnh viện Nhiệt đới Trung ương làm chủ tịch thấy rằng tỷ lệ kháng kháng sinh của nhiều chủng vi khuẩn tại Việt Nam ở mức đặc biệt cao. Các chủng Streptococcus pneumoniae, tác nhân phổ biến gây bệnh đường hô hấp người lớn và trẻ em, kháng penicillin và kháng erythromycin Đây là tỷ lệ cao nhất trong số 11 nước giám sát kháng thuốc tại Châu Á ANSORP năm 2000-2001. Bên cạnh đó, có tới 75% các chủng Pneumococci kháng với ba hoặc trên ba loại kháng sinh và 57% H. influenzae một tác nhân phổ biến khác gây bệnh hô hấp phân lập từ bệnh nhi ở Hà Nội 2000-2002 kháng với Ampicillin. Giải pháp cấp bách hiện nay Sử dụng kháng sinh hợp lý là giải pháp hàng đầu trong chống đề kháng kháng sinh Từ năm 2013, Bộ Y Tế Việt Nam đã ký cam kết về sử dụng dụng kháng sinh hợp lý và cùng tham gia phong trào tuần lễ phòng chống kháng thuốc kháng sinh ARM Week, tháng 11 hàng năm. Các chuyên gia khuyến cáo, với tình trạng kháng kháng sinh gia tăng nhanh như hiện nay, trong khi gần như không có nhóm thuốc kháng sinh nào mới được sáng chế ra trong nhiều năm, không mất quá nhiều thời gian để nhiều loại siêu vi khuẩn kháng mọi loại kháng sinh xuất hiện. Các giải pháp chính Chỉ sử dụng kháng sinh được kê đơn không bao giờ mua kháng sinh mà không có đơn thuốc của bác sỹ; Sử dụng kháng sinh có trách nhiệm luôn dùng kháng sinh đủ liều, không chia liều, không uống thuốc quá hạn; Khuyến khích gia đình và bạn bè sử dụng kháng sinh có trách nhiệm. Ly giải vi khuẩn được coi như vaccine đường miệng tại châu Âu Các giải pháp bổ sung tuyệt đối không sử dụng các loại thịt được chăn nuôi không đảm bảo có thể tồn dư kháng sinh; phòng tránh các bệnh lý nhiễm trùng phổ biến bằng cách tiêm phòng vaccine và sử dụng hỗn hợp ly giải tế bào vi khuẩn phòng bệnh đặc hiệu. Hiện nay, ly giải tế bào vi khuẩn hô hấp được ứng dụng trong phòng chống và hỗ trợ điều trị các bệnh nhiễm trùng hô hấp đặc biệt hiệu quả. Dạng dùng bằng cách ngậm giúp tăng cường miễn dịch tại chỗ, gia tăng khả năng phòng bệnh đặc hiệu và được coi như một dạng vaccine đường miệng oral vaccine tại châu Âu và nhiều nước tiên tiến trên thế giới. Để tìm hiểu chi tiết về các biện pháp chống kháng kháng sinh và ly giải tế bào vi khuẩn hô hấp chống bệnh nhiễm trùng hô hấp, độc giả có thể liên hệ 1800 8070 hoặc truy cập DS. Nguyễn Bá Nghĩa
Kháng kháng sinh là mối đe dọa sức khỏe cộng đồng không chỉ ở Việt Nam mà còn trên toàn thế giới, ảnh hưởng đến sức khỏe và cuộc sống của người dân và sự phát triển tổng thể, bền vững của cả một quốc gia. Kháng kháng sinh là gì? - Kháng sinh là những loại thuốc có khả năng tiêu diệt hoặc kềm hãm sự phát triển của một số loại vi khuẩn, nấm và ký sinh trùng trong cơ thể. Kháng sinh là công cụ điều trị vi khuẩn hữu hiệu khi được dùng đúng cách. - Tuy nhiên, sử dụng kháng sinh không phù hợp sẽ dẫn đến tình trạng kháng kháng sinh, do vi khuẩn sau khi tiếp xúc với thuốc có khả năng "tiến hóa" và thích nghi với thuốc. Khi đó, kháng sinh sẽ không còn hiệu quả diệt khuẩn, người bệnh cần được chữa trị bằng loại kháng sinh phổ rộng hơn, mạnh hơn. Ngoài ra, khi vi khuẩn trở nên “đa kháng” hoặc “siêu kháng thuốc”, trong khi chúng ta chưa thể phát triển được loại kháng sinh mới thì bệnh sẽ trở nên nghiêm trọng hơn, dẫn đến thời gian bị bệnh lâu hơn, chí phí điều trị cao hơn và người bệnh có nguy cơ tử vong vì không còn loại thuốc điều trị phù hợp. - Bởi vì kháng kháng sinh, nên ngày càng nhiều bệnh nhiễm trùng thông thường như viêm phổi, nhiễm trùng đường tiết niệu, bệnh lao và các bệnh do thực phẩm gây nên càng trở nên khó điều trị hơn và đôi khi không thể điều trị được. Điều gì dẫn đến tình trạng kháng kháng sinh hiện nay? Mua bán và sử dụng kháng sinh trong điều trị bệnh - Việt Nam những năm gần đây đã phải chứng kiến mối đe dọa ngày càng gia tăng chóng do sử dụng kháng sinh không hợp lý tại các cấp của hệ thống chăm sóc sức khỏe và trong cộng đồng. - Bằng chứng cho thấy 88 – 97% các cửa hàng bán thuốc kê kháng sinh mà không có đơn thuốc của bác sĩ mặc dù điều này đã bị cấm theo luật pháp Việt Nam. Một nghiên cứu tiến hành tại các bệnh viện Việt Nam cho thấy một phần ba số bệnh nhân nội trú đã sử dụng thuốc kháng sinh không hợp lý trong quá trình nhập viện. Sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi - Theo thống kê, có đến 75% kháng sinh trong chăn nuôi được nhập khẩu từ Trung Quốc. Tuy nhiên chúng không được quản lý chặt chẽ trong tiêu thụ. Do đó, nhiều loại kháng sinh cấm hoặc hạn chế sử dụng vẫn được nhập khẩu và buôn bán tự do. Tình trạng kháng thuốc kháng sinh đang trở thành vấn đề quan ngại hàng đầu của Tổ chức Y tế thế giới WHO, trong đó Việt Nam được xếp vào “một trong những nước có tỷ kệ kháng kháng sinh cao nhất trên thế giới”. - Ở nước ta, vấn đề sử dụng quá liều hoặc lạm dụng thuốc kháng sinh ở các trang trại gia súc và gia cầm còn tệ hơn do thực trạng thực thi pháp luật và giám sát sử dụng thuốc còn hạn chế. Đồng thời nhu cầu đạm động vật ngày càng tăng, Việt Nam hiện là một trong ba nước trong khu vực được dự đoán có tỷ lệ sử dụng thuốc kháng sinh ở động vật nuôi tăng cao nhất trong giai đoạn 2010 – 2030. Sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi tràn lan gây hại rất lớn cho tương lai. - Hậu quả của việc sử dụng kháng sinh tràn lan trong chăn nuôi gia súc, gia cầm và thủy sản là tồn dư thuốc trong sản phẩm đưa ra thị trường tiêu thụ. Con người sử dụng thực phẩm này làm ảnh hưởng gan, thận cùng nhiều bất lợi khác cho cơ thể và tình trạng kháng kháng sinh. “Khi thuốc kháng sinh không còn tác dụng thì chỉ một vết cắt nhỏ cũng có thể tử vong” – Bác sỹ Lokky Wai, đại diện WHO tại Việt Nam khuyến cáo. Hướng giải quyết vấn đề lạm dụng kháng sinh tại Việt Nam - Để cải thiện chất lượng thực phẩm có nguồn gốc từ động vật, cũng như tránh được tình trạng kháng kháng sinh cho người dân thì trước hết phải bắt đầu từ người chăn nuôi. Cần phải tuyên truyền, giáo dục cho họ mặt lợi của kháng sinh; tác hại nguy hiểm của việc dùng kháng sinh không đúng loại, liều lượng, thời gian. - Quan trọng hơn, mỗi người dân chúng ta cần phải nhận thức và tự bảo vệ mình khi cần phải sử dụng thuốc. Không tự ý mua thuốc tại các nhà thuốc tư nhân mà phải khám và được tư vấn đơn thuốc bởi bác sĩ chuyên môn. Không sử dụng kháng sinh bừa bãi là bảo vệ cho bản thân. - Nguồn WHO Kháng kháng sinh Thầy Thuốc Việt Nam Sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi ảnh hưởng như thế nào đến sức khỏe
tình trạng kháng kháng sinh ở việt nam